Tổng quan hình thái học thực vật lan hài
Lan hài là loài lan quý hiếm so với các loài lan khác và được gộp chung vào 4 giống trong chi (subfamily) Cypripedioieae , đó là Cypripedium, Paphiopedilum, Selenipedium và Phragmipedium. Chúng có tính chất giống như loài thảo mộc, không có giả hành và rễ cũng không phải là bộ phận dự trữ (dinh dưỡng).
Rế lan hài
Rễ của các giống lan hài quanh năm xanh được bao phụ bởi một lớp vỏ lụa được đặc trưng là lớp biểu bì trên bề mặt của hầu hết các rễ của lan. Lớp vỏ lụa làm cho rễ có khả năng hấp thụ độ ẩm trong không khí cũng như là nước.
Có hai chức năng của rễ của các loài lan hài,
- Một là làm cho cây bám chắc vào nơi chúng sinh trưởng
- Để hấp thụ nước cũng như chất dinh dưỡng.
Chức năng neo chặt vào nơi sinh trưởng hiển nhiên là rất quan trọng, đặc biệt là những loài không phải là địa lan thuộc giống Paphiopedilum và Phragmipedium, chúng bám chặt vào vách đá trên một bề mặt thẳng đứng, hoặc trên các thân cây, đá sỏi hoặc những bề mặt ít đất khác. Những người trồng lan hài cần nhớ cho điều này khi tiến hành thay chậu hoặc đưa các chất trồng thoát nước tốt vào chậu, khi đó cây lan cần được cố định chắc. Trong tự nhiên, rễ của các loài xanh tốt quanh năm, dù nó thuộc loài bán địa lan, thạch lan hoặc lan biểu sinh, thì cũng là một bộ phận điển hình để cung cấp cho chúng những thứ cần thiết khi chúng leo lên đá hoặc lên cây.
Những cái rễ của lan hài thì khác, cứng và dầy, người ta đo đường kính được khoảng 2-5 mm. Chúng cũng có phân nhánh một cách thưa thớt, nếu tính theo chiều dài tổng cộng khoảng 30-50 cm, đối với những cây khỏe mạnh thì rễ của chúng nhiều hơn. Đầu rễ non của cây Paphiopedilum có màu từ hồng nhạt đến trắng ngà, trong khi đó màu của những rễ già trở nên sậm và nhiều lông hơn.
Rễ bắt đầu từ thân rễ, tức là ở phần gốc của cái quạt (do lá tạo thành giống cái quạt), và trong một số loài, chúng bắt đầu từ cái trục của lá dưới thấp hơn. Điều quan trọng xin nhớ cho rằng sự phát triển của chiếc quạt nhanh hơn sự phát triển của bộ rễ, vì thế những cây non có thể còn phụ thuộc vào cây cha mẹ trong thời gian khoảng hơn một năm trước khi chúng có đủ rễ để cho phép chúng chuyển thành một cây trưởng thành.
Thân
Thân của giống Paphiopedilum và Phragmipedium là bộ phận nhỏ nhất trong cơ cấu thực vật của chúng và được phân chia thành 2 cấu trúc cũng như chức năng.
- Thân chính là loại thân rễ nằm ngang, và thông thường thì chúng nằm ở dưới lớp đất mặt. Đó là thân chính đỡ cho các lá, từ đó các rễ phát triển theo nhiều ngang và dọc. Thân theo chiều đứng của hai giống đã được trồng là cực ngắn và người ta ví nó như những cây rau diếp vì chúng có cái lõi. Những lóng của nó thì như bị nén chặt lại, vì thế mà lá mới hình thành lúc nào cũng ở trên đỉnh.
- Thân thường mang trên nó một số lượng lá không đổi, sau khi đã đạt đến độ trưởng thành sẽ hình thành một chồi hoa. Trong một số loài và loài lan lai, chồi non xuất hiện ở phần dưới của cây mẹ. Những cây con ở cây đó sẽ có sức phát triển rất nhanh, và người ta thu nhận được khá nhiều cây mới. Cây Paphiopedilum Maudiae được lai tạo lần đầu là một thí dụ. Sau ít năm, nó trở nên xum xuê, cây Paphiopedilum Mauduae này phát triển tốt đến mức chúng ra hoa liên tục. Đặc điểm này là một lý do cho những nhà trồng lan hài nhân rộng chúng ra.
Lá
Trong phạm vi 4 giống, lá của chúng khác nhau giữa loài này với loài khác, để hiểu rõ hơn nếu chúng ta quan sát những đặc tính được sắp xếp theo trình tự thảm thực vật.
- Những loài có lá gấp nếp (gập lại hoặc có rãnh theo chiều dọc lá biểu thị như những đường gân – có thể chỉ một vài đường và cũng có thể có nhiều đường) như của Cypripedium và Selenipedium, thì lá của chúng thường mỏng hơn những loài có lá chỉ gập đôi (như cái sống trâu, khi ta cắt ngang thì mặt cắt của chúng có hình chữ V),
- Những loài có lá dai (như da) của giống Paphiopedilum và Phragmipedium. Lá của giống Cypripedium khác với lá của giống Selenipedium ở chỗ đầu lá của Cypripedium mỏng hơn. Điều này cũng hợp lý, bởi vì chiều dài của chúng tương đối ngắn, do vậy chúng không cần phải có vật chống đỡ, và tồn tại trong một thời gian ngắn trước khi tàn đi.
Những đặc điểm khác nhau về di truyền gien xảy ra trong cùng một loài có lá dầy có gấp nếp, và như đã được nói trước, ngay cả sự khác nhau trong nội một loài cũng có thể nhận ra giữa những cây mọc ở hoang dã với những cây ở nơi trồng trong vườn được cách ly. Như một quy ước, những giống hài có lá dầy hơn, dù chỉ được coi là tương đối dầy, hoặc giữa dầy và mỏng thì loài đó chỉ thuộc về giống Paphiopedilum. Trong giống này những yếu tố kết hợp về cơ cấu và độ dài của lá cũng quyết định liệu những lá đó cứng và hướng lên trên, có sọc hình tia hay buông thõng (thòng) giống như những loài lan biểu sinh.
Một vài loài lan hài có lá có nhiều lông ở trên mặt hoặc ở mép lá, còn lại phần lớn lá của chúng là không có lông. Một số lớn các loài thuộc Paphiopedilum có những đốm với sắc tố hồng ở mặt dưới, và chúng ta cũng chỉ tìm thấy loại lá có khảm đặc trưng ở giống này mà thôi. Tỷ lệ sắc tố xanh đậm đến sắc tố của các mảnh khảm màu bạc ở những loài có lá khảm thì ít nhiều cũng là đặc tính của từng loài và thậm chí kể cả những biến loài. Cũng có nhiều loài thuộc Paphiopedilum có những lá thuần xanh không có bất cứ vết đốm nào. Cypripedium có hai loài có lá khảm dầy đặc màu nâu sáng. Trừ hai loài trên, còn lại lá của các loài thuộc Cypripedium, Phragmipedium và Selenipedium đều chỉ một màu xanh đậm trên mặt lá.
Trừ một số rất ít, lá của các loài lan hài đều dài và hẹp. Lá của chúng không có răng cưa hoặc không có gí bất thường ở mép (riềm). Lá của các loài thuộc Cypripedium có hình dạng biến đổi nhiều nhất, bao gồm cả những loài có lá rộng ngang, lá hình quạt có răng cưa không sâu ở mép, được gọi là lá có riềm gợn sóng.
Mặt dưới của lá có thể có những đường gân, như sống trâu làm cho nó như gập đôi lại hoặc có nhiều nếp nhăn xuất hiện trên những loài có lá gấp nếp. Ngược lại, cũng có một số loài các đường gân trên lá lặn đi, vì thế mà lá trở nên tương đổi phẳng.
Do cơ chế quang hợp của cây lan, tầm quan trọng của lá thì không cần phải bàn. Là một bộ phận có tính thẩm mỹ của cây lan, lá cũng đáng để chiêm ngưỡng lắm. Mặc dù có những sự biến đổi lớn về kết cấu và hình dạng, lá vẫn giúp ta phân biệt giữa giống này với giống khác, thậm chí giữa loài này với loài khác. Nhìn vào lá còn giúp ta biết rõ tình trạng sức khỏe của cây lan.
Xem thêm