Lan hài hương duyên - Paphiopedilum emersonii
Nếu như lần đầu tiên có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Paphiopedilum emersoniibạn rất dễ lầm tưởng với lan hài hằng Paphiopedilum hangianum vì hoa của chúng khá giống nhau sự khác biệt giữa cánh môi màu vàng và phần còn lại của hoa là một màu trắng tinh.
Lan hài hương duyên - Paphiopedilum emersonii
Lan hài hương duyên - Paphiopedilum emersonii có hoa mọc đứng, cao 15 - 20cm, thường mang 1-2 hoa. Sau rất nhiều những nghi ngờ về sự tuyệt chủng của chúng thì loài này cuối cùng cũng đã được tìm thấy năm 2000 ở vùng núi đá vôi cao ngất thuộc tỉnh Tuyên Quang. Từ lâu, cây lan này được ghi nhận là một loài đặc hữu của Trung Quốc. Nhưng mài đấn năm 2001 nhà thực vật học người Nga Averyanov vá các cộng sự đã phát hiện ra nơi mọc ở những phần nhỏ của khu vực núi đá vôi thuộc tỉnh Bắc Cạn và phía bắc tỉnh Thái Nguyên
Đồng danh: Paphiopedilum emersonii Koop. & P.J. Cribb, 1986. Paphiopedilum huonglanae N.T. Tich, 1998, nom inval.; Paphiopedilum emersonii var. huonglanae (N.T. Tich) N.T. Tich, 1998
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Lan đất
Phân bố:
- Trong nước: Thái Nguyên (Võ Nhai: Thượng Nung), Vĩnh Phúc.
- Thế giới: Trung Quốc.
Giá trị:
Loài cây làm cảnh rất quý vì hoa có màu sắc đẹp dịu dàng với cấu tạo môi có hạt độc đáo, lại rất hiếm.
Tình trạng:
Loài có khu phân bố hẹp, chỉ mới gặp với số lượng cá thể rất ít, trên các vách núi dựng đứng và cao.
Lan hài hương duyên - Paphiopedilum emersonii có 4 - 7 lá xếp thành 2 dãy. Lá rất giống P. hangianum, chất da, có hình thuôn - bầu dục, cỡ 15 - 25 x 3 - 5 cm,mặt trên màu lục bóng, mặt dưới màu lục nhạt. Cụm hoa có cuống dài 10 - 15 cm, mang 1 hoa. Lá bắc hình bầu dục rộng, cỡ 2,8 - 3 x 1,2 - 2 cm, màu trắng. Hoa thơm dịu, rộng 8 - 9,5 cm; lá đài và cánh hoa dày, màu trắng, có lông ngắn ở cả 2 mặt; lá đài ở gần trục hoa hình bầu dục - trứng, cỡ 3 - 4,5 x 2 - 3 cm; lá đài kia hình bầu dục rộng - gần tròn, cỡ 2,5 - 3,5 x 2,4 - 3,5 cm; cánh hoa hình bầu dục rộng - gần tròn, cỡ 4 - 4,5 x 2,5 - 3,5 cm, ở gốc có lông dài và chấm tía, mép bên đôi khi uốn vào trong; môi màu vàng hay da cam nhạt, gân hình cầu với các chấm to và trắng đục như hạt ngọc, cỡ 3,5 - 4,5 x 2 - 3 cm, mép cuốn vào trong với mạng gân lõm; nhị lép màu vàng với 2 vệt màu đỏ cam, cỡ 1,6 - 2 x 0,8 - 1,1 cm; bầu dài khoảng 3 cm, có lông nhung trắng.
Mùa hoa tháng 4 - 6. Tái sinh bằng hạt. Mọc rải rác dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa cây lá rộng trên núi đá vôi, ở độ cao 400 - 600 m, trong các khe nứt ít đất của các vách dốc đứng ở sườn gần đỉnh núi.
Xem thêm